Diễn biến tiếp theo Nhiệm vụ Boston

Lúc 04:00, các đơn vị lính dù của Sư đoàn Không vận 82 được tiếp viện bởi các đơn vị tàu lượn trong Nhiệm vụ Detroit, đem theo các trang thiết bị bổ sung, đạn dược, vũ khí hạng nặng, xe jeep cùng các đơn vị công binh và quân y,

Sau khi tập hợp được 32 sĩ quan và 303 binh lính từ Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 505, Trung tá Benjamin H. Vandervoort quyết định cho tiến quân vào Neuville-au-Plain, nhưng mệnh lệnh bị từ chối bởi Đại tá William E. Ekman, vì ông vẫn chưa nhận được thông tin từ Tiểu đoàn 3 tại Sainte-Mère-Église. Sau hơn hai tiếng, Vandervoort được lệnh tiến vào Sainte-Mère-Église, nhưng khi vào đến nơi lúc 10:00, họ nhận ra Tiểu đoàn 3 đã kiểm soát được hoàn toàn thị trấn này, và đang tổ chức phòng thủ trước những đợt phản công của quân Đức thuộc Tiểu đoàn Georgian 759, Sư đoàn Bộ binh 91. Cùng buổi sáng hôm đó, hai đại đội thuộc Trung đoàn Grenadier 1058, Sư đoàn Bộ binh 91, tổ chức tấn công vào giao lộ phía bắc Sainte-Mère-Église, nhưng đà tiến công của họ đã bị Trung đội 3 của Trung úy Turner B. Turnbull, thuộc Đại đội D, Tiểu đoàn 2 của Vandervoort đóng tại Neuville-au-Plain chặn đứng lại lúc 10:30. Cuộc chiến diễn ra ác liệt đến lúc 1700 cùng ngày và lính Đức buộc phải rút lui vì tổn thất nặng. Chỉ có 16 người trong tổng số 42 người ban đầu của Trung đội 3 sống sót.[23]

Tiểu đoàn 1 không chiếm được cầu Chef-du-Pont do kịp tập trung đủ quân số, nên Thiếu tá Kellam đã ưu tiên chiếm cầu La Fière trên sông Merderet. Đại đội A do Trung úy John J. Dolan chỉ huy cố gắng chiếm cầu lúc sáng sớm nhưng buộc phải rút lui do hỏa lực mạnh của lính Đức. Lúc 10:00 sáng ngày 6, một đơn vị hỗn hợp gồm Tiểu đoàn 1 của Trung tá Edwin J. Ostberg, 75 lính dù thuộc Tiểu đoàn 3 của Trung tá Arthur A. Maloney (đều thuộc Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 507) và hơn 100 lính dù thuộc Trung đoàn Bộ binh nhảy dù 508, dưới sự chỉ huy của Đại tá Roy E. Lindquist, đánh chiếm thị trấn và cầu La Fière thành công, đánh bật quân Đức cố thủ ở hai bên cầu về phía tây sông Merderet, rồi họ nhanh chóng tiến về chiếm Chef-du-Pont. Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 505 sau đó thay thế các đơn vị của Đại tá Lindquist trấn giữ khu vực Pont de la Fière. Trong buổi chiều cùng ngày, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 505 phải liên tiếp chống trả lại hai cuộc phản công của Trung đoàn Grenadier 1057, với sự hỗ trợ của xe tăng từ Tiểu đoàn Thiết giáp 100 và pháo binh ở bên kia sông Merderet. Trong cuộc phản công thứ hai, xe tăng Đức chọc thủng tuyến phòng thủ của lính dù Mỹ, tiểu đoàn trưởng - Thiếu tá Frederick C.A. Kellam, và tiểu đoàn phó - Thiếu tá James E. McGinity tử trận do trúng đạn pháo cối và Tiểu đoàn 1 buộc phải tạm thời rút lui.[23] Lúc 15:00, Chuẩn tướng James Gavin lệnh cho Trung tá Maloney cùng khoảng 200 lính dù từ Trung đoàn 507 và 508 đi tiếp viện Tiểu đoàn 1 tại La Fière, chỉ để lại 34 lính dù ở lại bảo vệ cầu Chef-du-Pont. Dưới sự chỉ huy của Đại úy Roy E. Creek, nhóm lính dù nhỏ này đã cầm chân quân Đức đủ lâu tới khi được lính dù từ Trung đoàn Bộ binh Tàu lượn 325 cùng các đơn vị pháo cối tiếp viện.

Lính dù thuộc Trung đoàn 508 tại Saint-Marcouf

Do sự phân tán mạnh của Trung đoàn 507 và 508, khu vực phía tây sông Merderet vẫn nằm trong sự kiểm soát của quân Đức, và những đơn vị lính dù bị thả lệch ở bên kia bờ sông đều bị chia cắt và cô lập, bao gồm 300 lính dù của Trung tá Thomas J.B. Shanley, khoảng 120 lính dù Trung tá Charles Timmes, và hơn 400 lính dù của Đại tá George V. Millet. Dù có nhiều quân số nhất nhưng nhóm của Đại tá Millet gặp vấn đề nghiêm trọng về đạn dược và không có pháo hỗ trợ, đơn vị của ông bị bao vây chặt và không thể phá vây để hội quân với Trung tá Timmes.[24]

Hai ngày tiếp theo, tình hình ở Merderet vẫn không có nhiều biến chuyển. Ngày 7 tháng 6, quân Đức lại tấn công vào la Fibre nhưng thất bại. Tướng Ridway (đổ bộ cùng đơn vị tàu lượn trong Nhiệm vụ Detroit), quyết định điều động Trung đoàn Bộ binh Tàu lượn 325, đổ bộ vào Normandie vào sáng ngày 7 tháng 6 và đang tập trung ở Chef-du-Pont, vượt sông và phá vây cho các đơn vị lính dù bên ka sông. Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 325 vượt sông thành công vào ngày 9 tháng 6 và tấn công cầu la Fibre ở bên kia sông và giải cứu nhóm của Trung tá Timmes, nhưng đã quá muộn để cứu Đại tá Millet. Hơn 250 lính dù tử trận hoặc bị bắt, trong đó có Đại tá Millet, chỉ có số ít lính dù trốn thoát thành công và được giải cứu bởi Trung đoàn 325. Triung đoàn 325 sau đó mở rộng phòng tuyến từ phía tây Merderet tới Chef-du-Pont. Với sự hỗ trợ của Sư đoàn Bộ binh số 4 đổ bộ từ Bãi Utah, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505 đã chiếm được Nhà ga Montebourg ở phía tây bắc Sainte-Mere-Èglise vào ngày 10. Trung đoàn 508 tấn công dọc theo Sông Douve vào Beuzeville-la-Bastille trong ngày 12 tháng 6 và chiếm được Baupte trong ngày tiếp theo.

Ngày 10 tháng 6, Sư đoàn Panzergrenadier SS 17, một đơn vị tiếp viện của Đức được điều vào tiếp viện thị trấn Carentan, Normandie, đã chạm trán với các đơn vị lính dù bị thả lạc ở Graignes, gồm 182 lính dù thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 507, Sư đoàn Không vận 82 và Đại đội B, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 501, thuộc Sư đoàn Không vận 101 Hoa Kỳ. Lực lượng SS áp đảo đã tràn qua tuyến phòng thủ của lính dù Mỹ và trận đánh kéo dài tới ngày 11. 15 lính dù tử trận và 17 người bị bắt làm tù binh đã bị lính SS hành quyết cùng với nhiều thường dân trong làng.[25] Tuy vậy, nhờ trận đánh này mà Sư đoàn Panzergrenadier SS 17 đã không kịp tiếp viện cho Carentan, thị trấn được Sư đoàn Không vận 101 kiểm soát hoàn toàn vào ngày 11 trước khi Sư đoàn Panzergrenadier SS 17 đến nơi vào ngày 13.

Trung đoàn 325 và 505 sau đó tiếp quản Sư đoàn Bộ binh 90 Hoa Kỳ, chiếm Pont l'Abbé và di chuyển về phía tây bên cánh trái của Quân đoàn VII để chiếm Saint-Sauveur-le-Vicomte vào ngày 16 tháng 6. Vào ngày 19 tháng 6, Sư đoàn Không vận 82 được biên chế vào Quân đoàn VIII, và Trung đoàn 507 đã thiết lập một đầu cầu trên Douve ở phía nam Pont l'Abbé. Sư đoàn 82 tiếp tục hành quân về La Haye-du-Puits, và thực hiện cuộc tấn công cuối cùng vào Đồi 122 (Mont Castre) vào ngày 3 tháng 7 trong một cơn mưa tầm tã. Cuộc tấn công ngừng lại sau khi Sư đoàn Bộ binh 90 tổ chức tấn công trong ngày 4 tháng 7, và Sư đoàn 82 được rút khỏi mặt trận để chuẩn bị trở về Anh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhiệm vụ Boston http://www.6juin1944.com/assaut/aeropus/en_9tcc.ph... http://www.6juin1944.com/veterans/brannen.php http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_8.h... http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_Con... http://www.history.army.mil/html/books/007/7-4-1/C... http://amcmuseum.org/history/troop-carrier-d-day-f... http://www.americandday.org http://www.b-26marauderarchive.org/MS/MS1741/MS174... //www.worldcat.org/oclc/606012173 http://www.ww2-airborne.us/